Vừa qua, tại hội nghị của ngành xây dựng, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho biết, trong giai đoạn 2011 - 2015, Bộ Xây dựng đã tổ chức lập, thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 44 đồ án quy hoạch, gồm 4 quy hoạch xây dựng vùng, 15 quy hoạch chung khu kinh tế, 17 quy hoạch chung đô thị và 8 quy hoạch chung khu chức năng đặc thù.
Trên cả nước hiện có 15 vùng liên tỉnh, 15 khu kinh tế ven biển và 13 khu kinh tế cửa khẩu đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; có 60/63 địa phương đã tổ chức lập quy hoạch xây dựng vùng, tỉnh và tỷ lệ lập quy hoạch chung đô thị đã đạt 100%. Tuy nhiên, quy hoạch chi tiết chỉ đạt khoảng 33%, tăng 3% so với năm 2014. Quy hoạch xây dựng nông thôn đạt 98,2%, tăng 3,3% so với năm 2014.
Lý do về việc chậm trễ lập quy hoạch chi tiết 1/500 đối với khu vực đô thị so với quy hoạch chung là vì nhiều địa phương chưa thực sự quan tâm, quyết liệt trong triển khai công tác quy hoạch, quản lý phát triển đô thị. Bên cạnh đó, kinh phí dành cho công tác quy hoạch và đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị còn hạn chế, còn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn ngân sách nhà nước, chưa xã hội hóa, đa dạng hóa được các nguồn lực để thực hiện. Vì vậy, theo số liệu công bố của Bộ Xây dựng, tốc độ lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch chi tiết tăng trung bình chỉ 2,5%/năm. Khoảng 65% quy hoạch chi tiết chưa thực hiện, nếu cứ tiếp tục với tốc độ này thì phải mất ít nhất 26 năm nữa để hoàn thành, và sẽ để lại nhiều hệ lụy, rất tốn kém để khắc phục cũng như không thể thống kê nổi.
So với quy hoạch chung, việc lập quy hoạch chi tiết 1/500 đối với khu vực
đô thị còn chậm trễ.
Vấn đề đáng lo ngại là, khi thiếu đi quy hoạch chi tiết thì chắc chắn công tác quản lý và giám sát các dự án của các cơ quan quản lý sẽ gặp khó khăn. Chắc chắn tình trạng lập dự án không phù hợp, phát sinh lợi ích nhóm… sẽ xảy ra, các công trình đội vốn, dở dang, 'đắp chiếu' xuất hiện sẽ càng nhiều. Chẳng hạn như, trường hợp Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ ký duyệt ngày 26/7/2011. Đến nay đã gần 5 năm nhưng nhiều quy hoạch chi tiết và quy hoạch phân khu chưa được phê duyệt, đồng thời quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc công trình cao tầng nội đô chưa được ban hành. Sự chậm trễ này khiến người dân lẫn doanh nghiệp mất nhiều thời gian thỏa thuận và phải chạy đủ mọi cửa xin cơ quan chức năng cho phép, gây khó khăn đối với công trình cao tầng. Hơn nữa, từ cơ chế này dễ nảy sinh tiêu cực và để lại nhiều hậu quả khó khắc phục, tiêu biểu như câu chuyện tại dự án 8B Lê Trực hoặc một số dự án xây sai giấy phép, cơi nới thêm tầng tại Khu tổ hợp chung cư Đại Thanh, SkyCity 88 Láng Hạ, Chung cư 93 Lò Đúc,…
Thực tế cho thấy, việc quản lý và kiểm soát phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch đã được quy định tại Nghị định 11/2013/NĐ-CP, nhấn mạnh về việc thành lập các ban quản lý khu vực phát triển đô thị trực thuộc tỉnh có trách nhiệm giám sát, quản lý, điều phối về quy hoạch đô thị của cả một vùng. Theo đó, trên cơ sở rà soát lại quy hoạch, Ban quản lý sẽ phân loại dự án đã đề xuất và xem xét quyết định cho dừng, tạm dừng hoặc được phép triển khai dựa trên các nguyên tắc cơ bản phù hợp phân khu để đảm bảo yêu cầu về mặt bằng hạ tầng cơ sở giao thông theo luật pháp quy định và chủ đầu tư có năng lực đảm bảo hoàn thành các dự án đúng tiến độ chất lượng. Tuy nhiên, sau gần 3 năm Nghị định 11/2013 có hiệu lực, hiện nay quy hoạch đô thị vẫn chưa thể hiện được diện mạo mới.
Tính đến nay, mới có 33 tỉnh tiến hành lập chương trình phát triển đô thị, 12 tỉnh lập khu vực phát triển đô thị và 10 tỉnh đang triển khai thành lập ban quản lý khu vực phát triển đô thị. Điều đó cho thấy, các địa phương vẫn chưa chú trọng nhiều tới vai trò của ban quản lý phát triển đô thị. Mặt khác, các nội dung trong Nghị định 11/2013 về cơ bản đã được thể hiện trong nhiều văn bản pháp quy như Luật Quy hoạch đô thị, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bất động sản sửa đổi và các văn bản hướng dẫn thi hành... Song, quá trình thực hiện các quy định này vẫn còn bộc lộ rất nhiều hạn chế, tạo các lỗ hổng để xảy ra vi phạm quy hoạch, chậm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị. Do đó, với các quy định tại Nghị định 11 chỉ có thể hạn chế ở mức độ nhất định, rất khó ngăn chặn hiệu quả hiện tượng vi phạm quy hoạch hoặc chậm chễ trong xây dựng hạ tầng đô thị đối với các dự án phát triển đô thị.
Theo Sài Gòn Đầu tư Tài chính Online