Nhiều người đã yêu, rất yêu Sài Gòn… Những cũng với nhiều người, tình yêu Sài Gòn thật khó có thê bộc lộ thành lời.
Nhiều người đã yêu, rất yêu Sài Gòn… Những cũng với nhiều người, tình yêu Sài Gòn thật khó có thê bộc lộ thành lời.
So với hơn 300 năm Sài Gòn – Gia Định được thiết lập nền hành chính, so với hơn 3.000 năm vùng đất này in dấu tích những con người cổ xưa nhất, 35 năm tôi sống ở Sài Gòn chỉ là chớp mắt! Chợt nhận ra dường như mình chưa một lần nói lời yêu với thành phố này.
Nhiều người đã yêu, rất yêu Sài Gòn. Có thể đối với họ đây là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi họ đã rời xa quê nhà vào kiếm sống và được Sài Gòn rộng rãi sẻ chia. Có thể là nơi để lại mối tình đầu, là nơi họ rời bỏ mà luôn mong một ngày quay lại… Nhưng cũng với nhiều người, tình yêu Sài Gòn thật khó có thể bộc lộ thành lời, phải chăng Sài Gòn không như một cô gái đẹp dịu dàng, yểu điệu làm người ta dễ cảm mến để rồi thốt vội lời yêu? Sài Gòn mang dáng vẻ của một cô gái hiện đại, năng động và bình dị, một vẻ đẹp mà người ta thường ngại ngùng khi muốn ngỏ lời yêu…
Nhiều năm trước tôi cũng vậy, mải mê nhớ về thành phố đẹp đến nao lòng của thời thơ ấu, để rồi đến một ngày thu tôi mới nhận ra mình đã yêu Sài Gòn từ khi nào không rõ…
Ấn tượng của tôi lần đầu gặp Sài Gòn là bến Bạch Đằng sông rộng nước đầy với những con tàu lớn nằm sát đại lộ Nguyễn Huệ. Đường phố thênh thang luôn tấp nập, hàng cây xanh cao vút trong ánh nắng chói chang, những cô gái đạp xe tà áo dài trắng bay bay trong gió. Những ngôi biệt thự sang trọng ẩn hiện sau tường rào cây xanh, những ngôi chùa rực rỡ đèn điện vôi màu…
So với Hà Nội hay Huế, có vể như Sài Gòn thiếu sự lắng đọng “hồn núi sông ngàn năm”, vì đây là thành phố hiện đại kiểu Âu – Mỹ. Nhưng Sài Gòn mang hình hài đặc sắc một đô thị phương Nam “trên bến dưới thuyền”. Khởi thủy, thành Gia Định dựng bên góc sông Sài Gòn và sông Thị Nghé. Kéo dài về phía tây nam vài cây số, là Chợ Lớn, của đa số người Hoa, nằm trên những mối giao nhau của kinh rạch chằng chịt, nối ra sông Sài Gòn bằng rạch Tầu Hũ hay còn gọi là rạch Bến Nghé. Nhắc đến Sài Gòn, người ta nhớ ngay đến hai cái chợ nổi tiếng,: Chợ Bến Thành – bên sông thị tứ buôn bán quan trọng nhất của thành Gia Định và Chợ Lớn - đầu mới giao thương lớn nhất Đàng trong.
Giai đoạn hình thành Bến Nghé – Sài Gòn cũng là giai đoạn tụ cư nhanh chóng của những cộng đồng người từ nhiều nơi đến đây. Quá trình khẩn hoang lập ấp, phát triển sản xuất… ,lưu dân đã duy trì những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của quê hương ở vùng đất mới. Đình, chùa, đền, miếu, nội quán… xây dựng trong khoảng 300 năm nay thể hiện sự đa dạng và hội tụ văn hóa của các cộng đồng cư dân và sinh hoạt tinh thần của người Việt, người Hoa, Khmer, Chăm.
Cũng như nhiều nước Đông Nam Á, kiến trúc thời thuộc địa cuối thể kỷ 19 nửa đầu thế kỷ 20 đã để lại cho Sài Gòn nhiều di sản kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao. Những con đường ngang dọc lấy sông Sài Gòn làm chuẩn chia thành phố thành những ô vuông.Trên những đường chính là các công sở, khu buôn bán, khách sạn, nhà hàng… Những đường nhỏ là khu cư trú của giới công chức, nhân viên, những biệt thự xinh xắn, rồi những dãy nhà phố, sâu hơn trong hẻm là xóm “nhà lá” của người lao động… Cứ vài ô vuông lại có nhà thờ làm trung tâm sinh hoạt tinh thần. Có thể thấy 3 đỉnh của tam giác trung tâm thành phố chính là 3 nhà thờ: Đức Bà – Tân Định – Huyện Sĩ.
Những kiến trúc công sở hay tôn giáo có nhiều chi tiết trang trí mang yếu tố của mỹ thuật Việt, Chawmpa, Khmer… Sự kết hợp giữa kết cấu, kiểu dáng kiến trúc, vật liệu xây dựng, đề tài trang trí, giữa phương Tây và phương Đông – bản địa và ngoại sinh, làm cho các công trình ở Sài Gòn thời thuộc Pháp có một phong cách kiến trúc khá đặc biệt, được gọi là phong cách kiến trúc Đông Dương, thể hiện xu thế “chủ nghĩa văn hóa” của kiến trúc đô thị phương Tây trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 ở nhiều nước Châu Á.
Tính đến tháng 4.2010, toàn thành phố có 124 công trình, đại điểm được xếp hạng di tích, trong đó: 1 di tích quốc gia đặc biệt (dinh Thống Nhất); 53 di tích quốc gia, 70 di tích cấp thành phố. Hệ thống di tích trong cảnh quan chung của một “Sài Gòn xưa” làm nên “bản sắc Sài Gòn”. Nhưng giờ đây “bản sắc Sài Gòn” đang mai một, bởi các công trình cao tầng hiện đại. Con đường Đồng Khởi là một trường hợp như thế. Đây có lẽ là con đường nổi tiếng nhất và có tuổi đời xưa nhất của Sài Gòn.
Nằm ở quận 1, con đường này tập trung nhiều khách sạn sang trọng, cửa hàng, tiệm cà phê, hiệu sách… đã trở thành địa chỉ văn hóa quen thuộc với nhiều thế hệ người Sài Gòn. Khu hành lang Eden với rạp chiếu phim, các cửa hàng tơ lụa, đồ lưu niệm, nhà sách Xuân – Thu, đối diện Nhà hát thành phố là tiệm cà phê Givral nổi tiếng, nhưng gần đây nó nổi tiếng hơn bởi ca khúc “Vĩnh biệt Givral” –C’est fini Givral. Ca khúc này làm ta nhớ đến bộ phim lãng mạn “Mùa hè cuối cùng ở Capri” đã làm rung động biết bao trái tim, còn bây giời nó làm nhiều người rưng rưng nước mắt. Một phần quá khứ của Sài Gòn không còn nữa. Givral và những di tích khác mất đi, Sài Gòn có nguy cơ là một thành phố không còn ký ức…
Tôi cũng như mọi người, chẳng ai muốn phải nghe “C’est fini…” đối với những di sản văn hóa còn lại của Sài Gòn.
Nhưng Sài Gòn không chỉ có “mất đi” mà đã mở rộng và thay đổi từng ngày. Kênh Nhiêu Lộc, Thị Nghè “nổi tiếng” kênh đen giờ đang được nạo vét, kè bờ, không lâu nữa sẽ là những “con kênh xanh xanh” chảy giữa lòng thành phố. Một dự án con đường trên cao dọc theo hai con kênh này với hành chục cây cầu bắc ngay sẽ trở thành “điểm nhấn” cho vùng trung tâm cũ của Sài Gòn.
Khu quận 4 bên kia cầu Khánh Hội nổi tiếng “xã hội đen” một thời, giờ những con đường rộng rãi, những ngôi nhà khang trang đã hiện lên. Vùng trũng Nhà Bè mênh mông dừa nước đất vàng phèn mặn, giờ là đại lộ 8 làn xe chay giữa khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng đẹp như mơ! Những làng xóm ruộng vườn phía Gò Vấp, Tân Bình hay Hóc Môn, Củ chi cũng đã thành phố mới. Tốc độ đô thị hóa ở Sài Gòn khá nhanh, việc quy hoạch thành phố còn chưa theo kịp sự phát triển, vì vậy không tránh khỏi sự lộn xộn, việc xây dựng tự phát, sự tùy tiện phát triển các khu dân cư xen lần thương mại, khu công nghiệp…
Sài Gòn bây giờ đã hơn 7 triệu dân, mà phần lớn là người tứ xứ. Qua nhiều năm khó nhọc mưu sinh, nhiều người đã hiểu nơi ta sinh ra là để gửi nhớ, gửi thương, còn Sài Gòn là nơi mỗi ngày ta có thể sống hết mình… Nếu đừng quá “thiên lệch” lòng yêu thương đối với nơi chôn nhau cắt rốn, thì tình cảm của ta đối với Sài Gòn sẽ công bằng hơn, vì đó là thành phố của mình, vì ta cũng đã là người Sài Gòn! Hiểu người Sài Gòn hơn, ta sẽ nhận ra tấm lòng nặng tình đầy nghĩa của những con người bộc trực phóng khoáng nơi đây.
Ba mươi lăm năm sống ở Sài Gòn, sống với Sài Gòn, liệu tôi có thể nói “Sài Gòn của tôi”? Của tôi, như một quê hương. Của tôi, như một nơi đã cho tôi trưởng thành. Của tôi, như một mối tình nồng nàn mà lặng lẽ thủy chung suốt cả cuột đời…
(Theo LĐ)