Việc khai thác, chế biến khoáng sản làm VLXD ở Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế trong công tác quản lý khai thác gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản phẩm.
Theo kết quả địa chất và thăm dò khoáng sản cho thấy Việt Nam là quốc gia giàu tài nguyên khoáng sản làm vật liệu xây dựng (VLXD). Tổng tiềm năng đá vôi là 1.754 tỷ tấn, trong đó đá vôi để sản xuất xi măng đã được khảo sát có trữ lượng 44.738 triệu tấn, đất sét xi măng là 7.601 triệu tấn, phụ gia hoạt tính cho xi măng có trữ lượng 3.947 triệu tấn, cao lanh 849 triệu tấn…
Thực trạng khai thác, chế biến khoáng sản làm VLXD
Dựa vào nguồn tài nguyên khoáng sản làm VLXD đa dạng, phong phú, trong những năm qua ngành công nghiệp VLXD nước ta đã được đầu tư, phát triển mạnh mẽ, không những đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, việc sử dụng tài nguyên còn nhiều vấn đề tồn đọng.
Trong 6 năm 2005 – 2010 cả nước đã khai thác và đưa vào sản xuất 3,2 tỷ nguyên liệu để sản xuất VLXD, hàng trăm núi đá vôi, đá garanit, đá cẩm thạch, đá bazan, hơn 10.000 ha đất canh tác đã được khai thác nhưng không có tái tạo. Trong đó, không ít mỏ khai thác không có thiết kế được duyệt, khai thác không theo đúng quy trình, quy phạm..gây lãng phí tài nguyên thiên nhiên, phá hoại cảnh quan, gây ô nhiễm môi trường sinh thái nghiêm trọng.
Cụ thể, có thể kể đến ba loại khoáng sản là cao lanh, đất sét trắng, tràng thạch dùng để sản xuất gốm sứ là loại khoáng sản quý hiếm với trữ lượng không lớn. Tuy nhiên, loại nguyên liệu quý hiếm này hầu hết lại được khai thác, chế biến theo công nghệ cũ, chất lượng sản phẩm thấp, hệ số thu hồi thấp, lãng phí tài nguyên lớn. Như mỏ fenspat Đại Lộc Quảng Nam có chất lượng tốt nhưng lại được cấp cho nhiều chủ đầu tư không đủ năng lực vào khai thác chế biến thủ công, lẫn lộn cả loại I, loại II hạ thấp chất lượng của mỏ, làm mất giá trị sản phẩm fenspat loại I, hủy hoại tài nguyên hiếm.
Tình trạng khai thác thiếu hiệu quả trên đây cho thấy nguyên nhân chính là công tác quản lý khai thác khoáng sản làm VLXD còn nhiều hạn chế như: Việc thực thi Luật Khoáng sản đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 20/3/1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản số 46/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 cùng với bản Quy hoạch thăm dò khai thác chế biến và sử dụng khoáng sản làm VLXD ở Việt Nam đến năm 2020 còn nhiều hạn chế, chưa được quán triệt đến cơ sở.
Bên cạnh đó, việc cấp phép khai thác và quản lý khai thác khoáng sản còn chồng chéo giữa cơ quan Trung ương và địa phương, cấp phép theo lối “xin, cho” gây nhũng nhiễu, phiền hà. Thời gian cấp phép khai thác ngắn 2 - 4 năm. Cấp phép cho các ông chủ không đủ năng lực để đầu tư công nghệ, thiết bị, cho khai thác và bảo vệ môi trường, xé nhỏ để cấp phép cho nhiều chủ đầu tư. Thậm chí có nhà máy xây dựng xong, sản xuất trong thời gian ngắn thì không còn nguyên liệu để sản xuất và cấp phép khai thác không theo đúng yêu cầu sử dụng, gây lãng phí tài nguyên, tác động đến cảnh quan, môi trường sinh thái.
Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác khoáng sản làm VLXD
Trước thực trạng còn nhiều tồn tại trong công tác khai thác và quản lý khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng. Mặt khác, do nhu cầu sản xuất VLXD trong giai đoạn 2011 – 2020 cao với dự kiến lên đến 10 tỷ tấn, TS. Trần Văn Huynh (Chủ tịch Hội VLXD Việt Nam) đã đưa 5 giải pháp nhằm khắc phục những hạn đẩy mạnh hiệu quả khai thác chế biến khoáng sản làm VLXD:
Thứ nhất, cần thống nhất quản lý việc khai thác khoáng sản từ trung ương đến địa phương về mọi mặt: cấp phép khai thác, quản lý quá trình khai thác, sử dụng khoáng sản, bảo vệ môi trường theo đúng quy hoạch. Đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong việc cấp phép khai thác lâu dài, sớm chấm dứt việc cấp phép 3 – 4 năm “xin, cho” gây nhũng nhiễu, tiến đến đấu thầu khai thác mỏ, cấp phép cho chủ đầu tư có năng lực với đầy đủ hồ sơ thiết kế khai thác, bảo vệ môi trường và thiết kế hoàn thu, tiết kiệm tài nguyên.
Thứ hai, áp dụng các giải pháp khoa học công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại trong khai thác và chế biến khoáng sản.
Thứ ba, tổ chức nghiên cứu xây dựng và phổ biến quy trình, quy phạm, công nghệ thăm dò, khai thác chế biến khoáng sản làm VLXD và phục hồi môi trường các mỏ sau khi kết thúc giai đoạn khai thác. Bên cạnh đó, nghiên cứu rà soát ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn bảo vệ môi trường, an toàn lao động trong khâu khai thác khoáng sản phù hợp với giai đoạn phát triển khoa học công nghệ hiện nay.
Thứ tư, các tổ chức, cá nhân tham gia thăm dò, khai thác chế biến khoáng sản làm VLXD cần nghiêm túc chấp hành theo đúng trình tự quy định cấp phép, quy trình, quy phạm, khai thác, chế biến, bảo vệ môi trường. Tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại của thế giới và trong nước để áp dụng vào đơn vị của mình; không ngừng đầu tư nâng cao trình độ công nghệ tiên tiến, cải tiến kỹ thuật trong khâu khai thác, chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái…
Cuối cùng, các địa phương cần tăng cường công tác quản lý, giám sát việc thăm dò, khai thác khoáng sản làm VLXD theo đúng quy hoạch của Thủ tướng chính phủ phê duyệt, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc bảo vệ môi trường trong khai thác và hoàn thổ, kịp thời xử lý sai phạm để dưa công tác khai thác khoáng sản làm VLXD vào quỹ đạo vừa đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho sản xuất, vừa tiết kiệm được tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, cảnh quan thiên nhiên…
TS Trần Văn Huynh cho rằng, 5 giải pháp trên đây cần được áp dụng đồng bộ, thực hiện nghiêm túc thì việc khai thác chế biến khoáng sản làm VLXD mới mang lại hiệu quả cao.
Mỹ Anh