Hỏi: Ngôi nhà mới xây chỉ đứng tên một mình vợ tôi. Cô ấy cũng tự làm hộ khẩu và đứng tên chủ hộ. Vậy xin hỏi, tôi phải làm gì trong trường hợp cô ấy không thỏa thuận là tôi có phần trong ngôi nhà này?
Từ trước khi xây nhà vợ tôi đã nghỉ hưu và không có tài sản gì. Lương hưu của vợ chỉ hơn 1 triệu đồng (từ năm 1991). Ngôi nhà được xây từ tiền tiết kiệm trong nhiều năm đi làm, vay thêm bạn bè và chính tôi cũng trả nợ vay này.
(Triệu Văn Vấn)
|
Đối với ngôi nhà là tài sản chung của vợ chồng, việc một người đứng tên sổ đỏ không ảnh hưởng tới quyền sở hữu của người còn lại. (Ảnh minh họa, nguồn: Internet) |
Luật sư tư vấn:
Tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 33, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
"Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung."
Theo thông tin mà bạn cung cấp thì nhà đất này là tài sản do vợ chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân nên được xác định là tài sản chung của hai vợ chồng. Do đó, việc Giấy chứng nhận đứng tên một mình vợ bạn không làm ảnh hưởng tới quyền sở hữu của bạn. Trường hợp xảy ra tranh chấp, nếu vợ bạn muốn được pháp luật công nhận ngôi nhà đó là tài sản riêng của mình thì phải chứng minh. Bằng không, nhà đất này vẫn là tài sản chung của cả hai vợ chồng.
Mặt khác, Khoản 2, Điều 12, Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ban hành ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một số điều cùng biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định: "Đối với tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký và ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất để ghi tên của cả vợ và chồng."
Tốt nhất, bạn nên bàn bạc với vợ mình, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi Giấy chứng nhận để cả hai cùng đứng tên. Việc này nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bạn trong trường hợp xảy ra tranh chấp.
Luật sư, Thạc sĩ Phạm Thanh Bình
(Công ty Luật Bảo Ngọc, Hà Nội)