Đến làng Đa Chất (Phú Xuyên) phài có "phiên dịch" để người ngoài có thể nghe hiểu được tiếng nói người bản địa
Cách trung tâm Thủ đô khoảng 40km là Đa Chất (Đại Xuyên, Phú Xuyên) - làng đang lưu giữ một dòng ngôn ngữ cổ. Người dân ở đây có một thứ tiếng nói để trao đổi riêng với vốn từ vựng rất phong phú, ít phải vay mượn.
Một số người đã tìm đến nghiên cứu về dòng ngôn ngữ này và đưa ra nhận định: Đây là những biệt ngữ có sự kết hợp giữa âm Nôm và âm Hán Việt. Thậm chí căn cứ vào phát tích và phả hệ của làng, một số người còn cho rằng đây là thứ ngôn ngữ thời Văn Lang - Âu Lạc còn bảo lưu được.
Vào làng phải có… phiên dịch
Nằm giữa ngã ba của sông Lương và sông Măng Giang (tên cổ của sông Nhuệ) là làng Đa Chất. Xã Đại Xuyên có 6 làng (nay là 6 xã) nhưng từ lâu nay Đa Chất vẫn được các làng trong xã coi là “anh cả”. Vào ngày hội các làng đều phải đem vật phẩm đến ngôi đình 500 năm tuổi, đã được xếp hạng Di tích Quốc gia để cúng tế. Đình Đa Chất (còn được gọi là đình ba nóc, đình tám mái).
Đa Chất có không gian yên lành của chốn đồng quê ngoại thành với những đình, chùa, miếu, mạo và một cảm giác khác biệt. Đến đây như lạc vào một vùng đất lạ vì dân làng sử dụng một thứ ngôn ngữ riêng để trao đổi. Nếu không phải là người dân sở tại, muốn nghe được thì bạn phải có người… phiên dịch!
Ngoài sự phong phú về vốn từ vựng, phải khẳng định rằng thứ ngôn ngữ tạm coi là cổ này của người Đa Chất rất giàu biểu cảm. Từ ngữ và cách sử dụng của họ cũng hết sức hình tượng, mà khi được nghe, tuy chưa biết nhưng cũng dễ để người ta hình dung ra được những gì mà người Đa Chất đang muốn nói.
Không chỉ hình tượng và tạo sự liên tưởng, hệ số đếm của làng cũng được hình thành với những cách đếm riêng và không phải vay mượn. Nhất (một), nhị (hai), thâm (ba), chớ (bốn), dâu (năm)… mười là lạp. Lái Lạp (hai mươi), thâm lạp (ba mươi)… bích (một trăm), bích rộng (một nghìn)… Thậm chí một số vật dụng thời hiện đại cũng đã được người dân ở đây chuyển theo ngôn ngữ riêng của mình.
Đồng hồ (sưỡn nhật), sưỡn mỗ (ô tô), sưỡn trì (tàu thuỷ), sưỡn xì thiên (máy bay)… Có thể khẳng định rằng, với quy định và việc hình thành ngôn ngữ, người Đa Chất đã có tới 99% ngôn từ giao tiếp cho tiếng nói riêng của mình.
Nơi còn lại duy nhất ngôn ngữ cổ Văn Lang - Âu Lạc?
tuy cận kề với các thôn khác như Cổ Trai, Thường Xuyên, Thái Lai, Kiều Đông, Kiều Đoài nhưng ở các làng này người dân đều không biết và không nói được thứ ngôn ngữ của người Đa Chất.
Về hiện tượng ngôn ngữ khác lạ này, hiện nay có rất nhiều quan điểm và cũng mới manh nha đánh giá. Nhưng tập trung lại, nhiều người cho rằng đó là thứ tiếng lóng và thứ ngôn ngữ cổ của thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc còn bảo lưu được. Thế nhưng trong hai quan điểm này, tiếng lóng đã gần như bị loại trừ vì tiếng lóng thường được coi là biệt ngữ - những tín hiệu ngôn ngữ riêng biệt của một nhóm người nào đó diễn ra trong một thời gian, không gian và hoàn cảnh nhất định. Như vậy, nếu là tiếng lóng thì việc sử dụng chỉ có ở một số người, không bền truyền và không thể có sự phong phú như thứ tiếng mà hiện nay người Đa Chất đang dùng.
Vậy nên hiện nay, giả thiết được coi là khoa học và phù hợp nhất: Đây là một dòng ngôn ngữ cổ, có thể là ngôn ngữ Văn Lang - Âu Lạc. Ông Chu Huy (Hội viên Hội Ngôn ngữ Việt Nam) và Nguyễn Dấn (Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) đã bước đầu khẳng định: “Tìm hiểu những biệt ngữ này thấy có sự kết hợp giữa âm Nôm và âm Hán Việt, âm thông dụng và âm ít dùng, âm nói tắt, âm nói gọn và âm dân dã”.
Hơn thế, người dân ở đây còn truyền tụng một câu nói: “Sinh Bạch Hạc, thác Ba Lương”. Theo thần phả của làng, đình Đa Chất hay đền Ba Lương chính là nơi thờ tự Trung Thành Đại Vương làm thành hoàng làng. Mà Trung Thành Đại Vương còn được gọi là Thổ Lệnh Trưởng - là Tướng chỉ huy Thuỷ quân thời Vua Hùng. Ngài là con thứ ba trong một bọc gồm 5 người con của vị Hào trưởng vùng Hồng Giang (sông Hồng) có tên là Đào Công Bột. Câu “Sinh Bạch Hạc” nói về Đào Công Bột còn “Thác Ba Lương” nói về sự hoá của Thổ Lệnh Trưởng con Ngài trong cuộc chiến Hùng - Thục.
Có thể đây là một “khoá mở” cho dòng ngôn ngữ này vì với giả thiết, trước đây Trung Thành Đại Vương đã mang thuỷ quân của Hùng Vương xuống đây trấn đóng. Và với sự trấn đóng này, Ngài đã truyền thụ thứ ngôn ngữ cổ trên vùng đất này.
Sự hiện diện của một hệ thống ngôn ngữ mà người Đa Chất đang sử dụng, việc đóng thuỷ trại của Thổ Lệnh Trưởng vùng Bạch Hạc, Hồng Giang có một mối liên hệ với nhau như thế nào về ngôn ngữ? Và “nghi vấn” về một nền ngôn ngữ cổ thời Văn Lang - Âu Lạc đang hiện diện ở Đa Chất có chính xác hay không? Câu hỏi này người Đa Chất và những người quan tâm đang trông chờ lời giải từ các nhà khoa học về ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ.
Minh Nguyên (Theo HNM)