Hỏi: Từ năm 1980 vợ chồng tôi sống chung với nhau nhưng không đăng ký kết hôn. Chúng tôi cùng tích cóp mua được một ngôi nhà. Tôi sống chung với mẹ chồng và thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do không hợp tính.
Vài tháng sau khi chồng tôi qua đời, mẹ chồng nói tôi không phải là vợ hợp pháp nên không có quyền ở trong ngôi nhà này. Vậy xin hỏi luật sư, mẹ chồng tôi nói thế có đúng không?
Chân thành cảm ơn!
Dương Thúy Hồng
Mẹ chồng có quyền đuổi con dâu ra khỏi nhà? (Ảnh minh họa, nguồn: Internet)
Trả lời:
Mục 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 3/1/2000 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình quy định, nếu quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987 (Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, trường hợp một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn thì tòa án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung.
Nếu sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập mới thực hiện việc đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng) chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Căn cứ theo quy định nêu trên, vợ chồng bạn về chung sống với nhau từ năm 1980, tức trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực. Do đó, tuy không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn nhưng quan hệ hôn nhân vẫn được xác lập và công nhận kể từ thời điểm về chung sống với nhau. Lưu ý là, quan hệ hôn nhân thực tế của vợ chồng bạn được xác lập vào năm 1986 cũng cần đủ điều kiện kết hôn, đồng thời không vi phạm điều cấm kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (có hiệu lực vào thời điểm bắt đầu chung sống), khi đó pháp luật hiện hành mới công nhận hôn nhân thực tế.
Cụ thể như sau:
- Điều kiện kết hôn: Con trai từ 20 tuổi trở lên, con gái từ 18 tuổi trở lên.
- Cấm kết hôn đối với các trường hợp: Người đang có chồng có vợ; những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; giữa những người khác có họ trong phạm vi 5 đời hoặc quan hệ thính thuộc về trực hệ; giữa anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; người mắc một trong các bệnh hoa liễu, bệnh hủi, loạn óc mà chưa chữa khỏi; người bất lực hoàn toàn về sinh lý.
Nếu vợ chồng bạn đủ điều kiện và được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế thì việc mẹ chồng bạn cho rằng bạn không phải là vợ hợp pháp của chồng bạn là không có căn cứ.
Mặt khác, khi chồng bạn qua đời, tài sản chung (ngôi nhà) sẽ được chia đôi. Bộ luật dân sự hiện hành quy định, nếu chồng bạn chết không để lại di chúc, khi đó tài sản chung sẽ được chia theo quy định của pháp luật. Cụ thể, bạn là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và sẽ được chia một phần bằng với những người thừa kế khác.
Còn nếu vợ chồng bạn không đủ điều kiện để được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế thì không được công nhận là vợ chồng. Khi chồng bạn mất, tài sản chung sẽ được chia như sau: Tài sản riêng của ai thuộc về người đó. Theo quy định của Bộ luật dân sự, tài sản chung phân chia theo nguyên tắc phân chia tài sản thuộc sở hữu chung.
Luật sư, Thạc sĩ Phạm Thanh Bình
(Công ty Luật Bảo Ngọc, Hà Nội)