Theo Savills, tại thị trường Tp.HCM và Hà Nội, loại hình căn hộ dịch vụ có tỷ suất khai thác cao nhưng số lượng dự án vẫn còn hạn chế.
Mới đây, Phó Giám đốc Bộ phận Nghiên cứu Savills Hà Nội, bà Đỗ Thị Thu Hằng đã có những nhận định, đánh giá về thị trường căn hộ dịch vụ tại Việt Nam.
Bà Hằng cho biết, phân khúc căn hộ dịch vụ đang có công suất cho thuê rất tốt. Tính đến quý II/2018, tại Hà Nội, công suất thuê trung bình của căn hộ dịch vụ đạt 88%, ở Tp.HCM là hơn 80%. Trong bối cảnh Việt Nam đang thu hút mạnh vốn đầu tư FDI, đây là phân khúc rất tiềm năng.
Theo chuyên gia này, căn hộ dịch vụ hướng đến đối tượng khách thuê chủ yếu là khách du lịch - công tác dài ngày, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam và khách du lịch ngắn ngày. Không giống với khách sạn, căn hộ dịch vụ cung cấp không gian rộng rãi cùng các tiện ích như phòng ngủ cho khách, phòng làm việc, máy giặt, bếp phục vụ nhu cầu sinh hoạt lâu dài của khách thuê.
Căn hộ dịch vụ cũng khác với biệt thự cho thuê hoặc căn hộ để bán. Loại hình bất động sản này cung ứng đầy đủ nội thất, dịch vụ dọn phòng và ăn uống 24/24, đồng thời được các đơn vị chuyên nghiệp quản lý, điều hành. Thực tế cho thấy, những dự án chuyên biệt còn phục vụ một nhóm khách thuê nhất định. Đại diện Savills cho rằng, đây là điểm hấp dẫn của căn hộ dịch vụ đối với khách thuê nước ngoài làm việc ở đại sứ quán, các công ty FDI, ngân hàng quốc tế, khu công nghiệp cũng như các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam.
|
Nguồn cung căn hộ dịch vụ tại Tp.HCM và Hà Nội còn hạn chế. Trong ảnh: Một dự án căn hộ dịch vụ ở Tp.HCM. (Ảnh: Đơn vị quản lý) |
Số liệu thống kê từ Focus Economics cho biết, Việt Nam thuộc top 4 các nước Đông Nam Á thu hút vốn FDI đăng ký cao nhất từ năm 2013. Những doanh nghiệp FDI cũng chính là khách hàng lớn, tiềm năng của phân khúc căn hộ dịch vụ.
Thế nhưng, chuyên gia của Savills đánh giá, so với tiềm năng của thị trường, nguồn cung căn hộ dịch vụ tại Việt Nam còn hạn chế, chưa thực sự tương xứng. Hầu hết các dự án căn hộ dịch vụ chất lượng tập trung ở các đô thị lớn như Tp.HCM, Hà Nội, Hải Phòng,… Trong khi đó, nhu cầu cho sản phẩm này lại trải khắp các tỉnh lân cận thành phố lớn như Hà Nam, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Long An, Bình Dương và các khu công nghiệp trên cả nước.
Tổng lượng khu công nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam tính đến cuối năm ngoái đạt 220, quy mô diện tích lên đến 69.000 ha, bà Hằng thông tin.
"Có thể thấy có một sự thiếu cân bằng giữa cung và cầu của thị trường căn hộ dịch vụ. Riêng tại Hà Nội và các tỉnh lân cận đã có hơn 70 khu công nghiệp. Tuy vậy thị trường mới ghi nhận số dự án căn hộ dịch vụ hạn chế, với một vài thương hiệu điều hành quốc tế", chuyên gia đến từ Savills chỉ rõ. Cũng theo bà Hằng, tại Hà Nội, hiện quy mô của các thương hiệu chưa tương xứng với tiềm năng khi so sánh với quy mô trong khu vực, thế giới; chưa cho thấy mức độ phát triển của thị trường.
Thương hiệu điều hành căn hộ dịch vụ quốc tế đầu tiên gia nhập thị trường Việt Nam vào năm 1993. Vậy nhưng, sau hơn 20 năm, quy mô của các thương hiệu này vẫn rất khiêm tốn so với mạng lưới toàn cầu của họ. Chẳng hạn, tại Hà Nội, lượng căn hộ dịch vụ The Ascott Limited điều hành đạt 670 căn, chiếm 1,5% danh mục 44.000 căn trên toàn cầu. Theo ước tính của Frasers Hospitality, vào năm 2019, đơn vị này sẽ điều hành 30.000 căn hộ dịch vụ. Thị trường Hà Nội ghi nhận một dự án cung ứng 184 căn. Trong khi đó, Pan Pacific vừa mới quản lý một dự án tại Hà Nội gồm 56 căn. Con số này trên toàn cầu là 12.000 căn đến từ 40 dự án.
Bà Hằng nhìn nhận: "Trong bối cảnh nguồn cầu tiếp tục tăng, tỷ lệ này cho thấy còn nhiều dư địa cho phân khúc căn hộ dịch vụ phát triển".
Trước thực trạng đó, chuyên gia của Savills khuyến nghị, để tận dụng được nguồn cầu của khách quốc tế, khách du lịch ngắn này, các chủ dự án căn hộ dịch vụ cần có chính sách cho thuê linh hoạt. Từ đó, giúp tối đa hóa công suất cho thuê của loại hình căn hộ này và doanh thu của dự án.